Lịch sử hoạt động DShK

Chiến tranh thế giới thứ hai

DShK đang chiến đấu với vai trò là vũ khí phòng không trong thế chiến thứ hai

DShK 1938 là một trong những mẫu đại liên tiêu chuẩn của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai và nó được sử dụng trong nhiều vai trò khác nhau. Khi sử dụng làm súng phòng không, nó được gắn trên giá 3 chân và nó cũng được trang bị cho cho xe tải, xe tăngpháo tự hành làm hỏa lực phụ để chống lại những lính chống tăng của đối phương, máy bay ném bom tầm thấp,...Xe tăng IS-2, pháo tự hành ISU-152 đều dùng DShK làm hỏa lực phụ trợ trên tháp pháo, chỗ đài quan sát của chỉ huy chiếc tăng. Đôi khi, súng còn được trang bị trở thành hỏa lực chính của loại xe tăng lội nước hạng nhẹ T-40 và trên các xe bọc thép chở quân họ BTR. Trong suốt 5 năm tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1941-1945) thì Hồng Quân đã sản xuất được khoảng 9.400 khẩu DShK.

Không chỉ được dùng trong tác chiến phòng không, DShK còn được sử dụng cho nhiệm vụ yểm trợ bộ binh khi tác chiến trên mặt đất (hoặc tác chiến từ trên xe tăng). Khi đó, súng sẽ được gắn trên một bộ chân đế có hai bánh xe, hai càng cố định và một tấm khiên chắn bằng thép để bảo vệ cho xạ thủ (khi tác chiến trên mặt đất). Còn khi tác chiến từ trên xe tăng thì súng được gắn trên một loại giá được thiết kế dành riêng cho xe tăng

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai

Năm 1946, phiên bản hiện đại hóa của khẩu DShK-38 là DShK-38/46 hay DShKM đã ra đời. Sau chiến tranh, súng không chỉ được sử dụng và sản xuất ở Liên Xô mà còn được sử dụng và sản xuất hết sức rộng rãi tại các nước như: các thành viên của Khối Warszawa, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Pakistan, Cuba, Việt Nam,... Một số kiểu xe tăng hiện đại sau Chiến tranh thế giới thứ hai như T-55, T-64, T-72 vẫn sử dụng đại liên DShK làm hỏa lực phòng không cũng như hỏa lực yểm trợ bộ binh tiêu chuẩn mãi cho đến khi đại liên NSV hiện đại hơn ra đời và thay thế cho nó. T-72 chính là mẫu tăng hiện đại đầu tiên trang bị NSV thay cho DShK. Nhiều phiên bản khác nhau của khẩu súng này đã được sản xuất với số lượng lớn tại các nước bên ngoài Liên Xô như là ở: Trung Quốc, Iran, Pakistan,... Hiện nay, Pakistan là quốc gia duy nhất vẫn còn sản xuất phiên bản DShK của Trung Quốc, đại liên Type 54.[1]

Từ năm 1950 trở đi, đại liên DShK bắt đầu được Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc viện trợ cho Quân đội nhân dân Việt Nam từ các gói hàng viện trợ do Liên Xô cung cấp và nó nhanh chóng trở thành vũ khí phòng không tầm thấp cũng như vũ khí yểm trợ bộ binh tiêu chuẩn trong các đại đoàn chủ lực và các tiểu đoàn phòng không độc lập của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong hai cuộc chiến là: Chiến tranh Đông DươngChiến tranh Việt Nam. Và cho đến ngày nay, DShK vẫn là súng máy 12,7mm được sử dụng phổ biến nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Khẩu đại liên này đã bị quân đội Liên Xô thay thế bằng mẫu súng đại liên mới hơn, hiện đại hơn là NSV từ năm 1972. NSV dùng chung đạn với DShK nhưng nhẹ hơn (NSV nặng khoảng 25 kg khi không có nạp đạn. Còn DShK nặng 34kg khi chưa nạp đạn). Điều này giúp cho bộ binh mang vác NSV dễ dàng hơn, thậm chí có thể vừa cầm vừa bắn bởi thiết kế hiện đại của nó. Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991 thì Cục thiết kế Degtyaryov Plant của Nga đã tự phát triển ra mẫu súng máy Kord vào năm 1991. Kord thay thế luôn cả vai trò của cả hai "người tiền nhiệm" là: DShK và NSV trong biên chế của Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga từ năm 1998. Nhưng cũng như nhiều thứ vũ khí khác của Nga, tuy gần như không còn được Nga sản xuất và không còn được sử dụng trong biên chế trong Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga nhưng những khẩu DShK vẫn còn rất tốt sau hàng chục năm. Vì vậy, nó vẫn còn được sử dụng rộng rãi trong chiến đấu ở một số khu vực, đặc biệt là trong những cuộc xung đột vũ trang hay là các cuộc nội chiến ở các nước Trung Đôngchâu Phi. DShK được đánh giá là một trong những khẩu súng máy được lực lượng du kích ưa thích vì nó có uy lực cực mạnh, không đòi hỏi quá nhiều công chăm sóc, bảo dưỡng như những khẩu súng máy khác,... Năm 2004, tại Al-Amarah, Iraq, nó đã được sử dụng để chống lại lính Anh.[3] Năm 2019, các cuộc chiến ở Iraq, Syria, Afghanistan,... vẫn tiếp tục có sự hiện diện của DShK. Mặc dù ở cái tuổi 80 nhưng khẩu DShK vẫn luôn tự chứng minh về bản thân của mình rằng: "Nó vẫn là một trong những "kẻ hủy diệt" đáng sợ nhất xuất hiện trên chiến trường dù là ở cái tuổi 82 đi chăng nữa!".

Nội chiến Trung QuốcChiến tranh Triều Tiên

Trong Nội chiến Trung Quốc giai đoạn 1946 - 1949, đại liên DShK do Liên Xô viện trợ cho Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc được sử dụng rộng rãi. Trước năm 1945, Bát lộ quân và Tân tứ quân Trung Quốc sử dụng phổ biến các mẫu đại liên như: Maxim Type 24 (Maxim Type 24 là phiên bản súng máy hạng nặng MG 08 của Đức được Hanyang Arsenal sản xuất từ năm 1935), sau này có thêm cả PM M1910SG-43 Goryunov (do Liên Xô viện trợ) hay là Browning M1919 (do Mỹ viện trợ) làm hỏa lực chủ yếu để yểm trợ cho bộ binh cũng như là hỏa lực phòng không tầm thấp. Năm 1945, sau khi đánh cho đạo quân Quan Đông của Nhật Bản tại Mãn Châu thua tan tác thì Liên Xô đã viện trợ cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hàng chục nghìn tấn vũ khí, đạn dược các loại; trong đó có khoảng hơn 3000 khẩu DShK. Từ đó, loại súng máy này được trang bị đến cấp tiểu đoàn của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, có tới hơn 100 đại đội hỏa lực đại liên DShK chuyên trách được tổ chức. Ngoài ra, mỗi đại đội bộ binh nặng cũng được trang bị từ 1 đến 2 khẩu súng này. Cùng với chiến thuật biển người, hỏa lực đại liên DShK đã reo rắc nỗi kinh hoàng cho các đơn vị bộ binh, thiết giáp hạng nhẹ và các loại máy bay cánh quạt của Quân đội Trung Hoa dân quốc. Hiện nay, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc đã thay thế nó bằng đại liên W85 hiện đại hơn, nhẹ nhàng hơn do công ty Norinco của Trung Quốc tự thiết kế và sản xuất hàng loạt để phục vụ cho Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc và xuất khẩu. Khẩu W85 cũng sử dụng đạn 12.7x108mm (giống với khẩu DShK)

Trong Chiến tranh Triều Tiên, Chí nguyện quân của Giải phóng quân Nhân dân Trung QuốcQuân đội Nhân dân Triều Tiên đều sử dụng đại liên DShK làm hỏa lực yểm trợ cấp tiểu đoàn cũng như là hỏa lực phòng không tầm thấp đến gần trung bình. Nó và pháo phòng không tự động 61-K 37 mm bẻ gãy nhiều cuộc tấn công của lực lượng máy bay cánh quạt của Không quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953).

Trong Chiến tranh Việt Nam

Trong Chiến tranh Đông Dương (1946-1954), từ năm 1950 trở đi, đại liên DShK được sử dụng làm hỏa lực cấp trung đoàn và tiểu đoàn bộ binh độc lập (quân chính quy) của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trước năm 1954, số lượng súng máy DShK phục vụ trong biên chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn còn tương đối hạn chế vì nó còn phụ thuộc vào nguồn vũ khí, đạn dược viện trợ từ phía Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc. Mỗi một trung đoàn hoặc tiểu đoàn bộ binh độc lập chỉ sở hữu có khoảng từ 1 đến 3 khẩu súng này nhưng cũng không đủ để trang bị cho toàn bộ lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cho đến năm 1954 thì trong biên chế của trung đoàn phòng không 367 thuộc Đại đoàn 351 (hỗn hợp công binh - pháo binh) có sáu tiểu đoàn phòng không, mỗi tiểu đoàn có 1 đại đội DShK (12 khẩu) và 3 đại đội cao xạ 37mm (12 khẩu), trang bị tổng cộng 72 khẩu DShK và khoảng 72 khẩu 61-K 37 mm. Trung đoàn đã tham gia vào Chiến dịch Điện Biên Phủ và trong chiến dịch này thì những khẩu DShK đã bắn hạ 13 trên tổng số 62 máy bay của quân viễn chinh Pháp bị phá hủy bởi vũ khí phòng không. Đồng thời, DShK cũng gây thiệt hại nặng nề cho rất nhiều máy bay khác của không quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Những khẩu DShK cùng với những khẩu pháo phòng không tự động 61-K 37 mm giúp cho những người lính Việt Minh khống chế gần như toàn bộ bầu trời Điện Biên Phủ, gây ra rất nhiều khó khăn và thiệt hại cho các hoạt động tiếp viện, trinh thám, hay là đánh phá bằng máy bay của không quân Pháp.[4]

Trong cuộc chiến tiếp theo - Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) thì số lượng đại liên DShK phục vụ trong biên chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tăng lên đáng kể và đồng thời, Quân chủng Phòng không - Không quân của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng ngày một trở nên lớn mạnh, quy củ hơn trước rất nhiều lần. Mỗi một trung đoàn thường được trang bị khoảng từ 3 đến 4 khẩu súng này. Còn mỗi một tiểu đoàn thì được trang bị ít hơn trung đoàn, thường chỉ có khoảng từ 2 đến 3 khẩu. Từ năm 1972 trở đi thì số lượng súng DShK được trang bị đối với cấp trung đoàn được tăng lên thành 5 đến 7 khẩu hoặc được tổ chức riêng biệt thành các đại đội hỏa lực phòng không riêng biệt sử dụng hỗn hợp hai loại súng máy là DShK 12,7 mm và súng máy hạng nặng KPV cỡ nòng 14,5 mm. Cho đến nay, số lượng đại liên DShK được biên chế trong hỏa lực cấp trung đội trực thuộc các đại đội bộ binh chính quy của Quân đội nhân dân Việt Nam thường có số lượng vào khoảng từ 3 đến 5 khẩu. Vậy nên, nó thường được gọi là súng máy cấp đại đội. Cái tên đại liên ra đời từ đây.

Đối với Binh chủng Tăng - Thiết giáp của Quân đội nhân dân Việt Nam thì DShK được gắn trên các xe bọc thép BTR-40, BTR-50, trên tháp pháo xe tăng T-54/55 do pháo thủ thứ hai hoặc chính chỉ huy xe tăng đó trực tiếp điều khiển. Nó vừa dùng làm hỏa lực yểm trợ tầm gần cho bộ binh, vừa dùng làm hỏa lực phòng không tầm thấp. Đối với các tàu tuần tiễu cỡ nhỏ hoặc xuồng phóng lôi, DShK cũng được gắn trên các giá đỡ, phối hợp với các loại vũ khí khác trên tàu để tạo ra màn hỏa lực dày đặc.

Trong tác chiến phòng không, nhiều đơn vị hỏa lực cấp đại đội đến tiểu đoàn phòng không sử dụng súng máy DShK 12,7 mm kết hợp với các loại súng máy cỡ lớn như ZPU-1, ZPU-2, ZPU-4. Điển hình là cụm tiểu cao 175, (đơn vị cấp tiểu đoàn) thuộc Trung đoàn cao xạ 252 (Sư đoàn phòng không 363 - Hải Phòng). Trong biên chế của tiểu đoàn có một đại đội gồm có 12 khẩu DShK 12,7 mm và 2 đại đội gồm có 18 khẩu ZPU-2 và ZPU-4 đã chiến đấu tốt trong Chiến dịch phòng không 12 ngày đêm tháng 12 năm 1972, bắn rơi 5 máy bay tiêm kích các loại A-6, A-7, F-4H và một chiếc F-111 rất hiện đại của Không lực Hoa Kỳ.[5]

Đối với các lực lượng dân quân tự vệ trong thời kì Chiến tranh Việt Nam, đại liên DShK cũng được sử dụng rất rộng rãi bởi lực lượng này. Trong hai cuộc chiến tại Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Không lực Hoa Kỳ (1964-1968, Chiến dịch LinebackerChiến dịch Linebacker II), đại liên DShK được trang bị cho các trung đội và tiểu đội dân quân tạo dựng màn hỏa lực tầm thấp chống lại các máy bay của Không quân Hoa Kỳ. Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 12 năm 1972, ba trung đội tự vệ của Nhà máy Cơ khí Mai Động, Nhà máy Cơ khí Lương Yên và Xí nghiệp Gỗ Bạch Đằng phục kích tại cảng Vân Đồn (Hai Bà Trưng - Hà Nội) đã sử dụng 3 khẩu DShK và 2 tổ hợp súng máy phòng không ZPU-1 (14,5 mm) đã bắn rơi tại chỗ một máy bay F-111A hiện đại của Không lực Hoa Kỳ, bắt sống phi công.[6]

Không chỉ được dùng để bảo vệ vùng trời miền Bắc, DShK kết hợp với nhiều thứ vũ khí phòng không khác (như pháo phòng không 37 mm hay pháo phòng không 57 mm)cũng được nhìn thấy chiến đấu tại các binh trạm của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bố trí dọc theo tuyến đường Đường Trường Sơn để chống lại các cuộc càn quét, bắn phá bằng không quân của Không quân Hoa Kỳ cũng như Không lực Việt Nam Cộng hòa ngắm vào con đường này.

Trong Trận Khe Sanh thì những khẩu DShK được bố trí phòng thủ tại các ngọn đồi xung quanh Sân bay Tà Cơn của Quân Giải phóng đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các hoạt động tiếp tế, chi viện của Không quân Mỹ từ Sân bay Tà Cơn cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa lẫn Quân đội Mỹ đến mức các chỉ huy cao cấp của Không quân Hoa Kỳ phải đau đầu suy nghĩ ra cách tiếp tế từ trên không cho Quân lực Việt Nam Cộng hòaQuân đội Mỹ ở dưới đất bằng Chiến dịch Đàn Ngỗng (Operation Gaggle), sử dụng "ngựa thồ" C-130 cất cánh từ Thái Lan bay sang để tiếp vận. Đến năm 1971, trong chiến dịch Lam Sơn 719 thì Không quân MỹKhông lực Việt Nam Cộng hòa gặp thiệt hại rất nặng nề vì màn hỏa lực phòng không dày đặc tạo ra từ những vũ khí phòng không của quân Giải phóng ở dưới mặt đất (trong đó có DShK). Họ bị thiệt hại lớn đến mức họ phải thốt lên rằng: "Hạ Lào không phải khu vườn hoa"

DShK được nhiều chuyên gia quân sự Mỹ đánh giá là một trong những thứ vũ khí cực kỳ nguy hiểm đối với các loại trực thăng của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Binh sỹ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thường dùng chiến thuật đón lõng đường bay để săn tìm, phá hủy trực thăng Mỹ. Họ ẩn nấp, ngụy trang dưới hầm hoặc dưới tán cây rậm rạp, đợi trực thăng Mỹ sà thật thấp xuống săn tìm mục tiêu hoặc đổ quân chi viện thì nổ súng để triệt hạ nó. Chỉ cần vài phát đạn 12.7mm bắn trúng trực diện chiếc trực thăng là đủ để triệt hạ nó. Trong số hơn 5.600 trực thăng các loại của Mỹ bị phá hủy ở Việt Nam thì tỷ lệ trực thăng bị hạ lớn nhất là do súng máy DShK gây nên. Có nhiều chiến sĩ của QĐNDVN đã triệt hạ được nhiều máy bay đối phương (đặc biệt là trực thăng) bằng DShK trong Chiến tranh Việt Nam, tiêu biểu như:

  • Trong 3 năm 1970-1972, chiến sĩ Lê Xuân Tưởng (sinh năm 1950 tại thôn Xuân Hồi, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình) đã cùng với đồng đội của anh tiêu diệt tới 37 chiếc máy bay Mỹ bằng DShK, trong đó có 2 chiếc máy bay phản lực F-4 Phantom hiện đại của không quân Mỹ .Đặc biệt, trong trận đánh ngày 02/07/1970 ở căn cứ Dốc Mây, chỉ trong 30 phút, chỉ riêng anh Lê Xuân Tưởng đã bắn hạ tới 5 chiếc máy bay UH-1A của Mỹ[7]
  • Chiến sĩ Tạ Duy Sản (tổ 1B, phường Tân Thịnh, thành phố Hoà Bình) cùng với khẩu DShK đã hạ 4 máy bay Mỹ (trong 3 ngày 15, 16, 17/7/1968, trung đội của anh đóng chốt tại sân bay Khe Sanh đã hạ tới 7 máy bay CH-47, trong đó, chiến sĩ Tạ Duy Sản tự mình bắn hạ 1 chiếc)[8]
  • Lê Hữu Tựu (1944 - 1972), Anh hùng LLVTND; Đại đội phó Đại đội phòng không 3, Tiểu đoàn 14, Sư đoàn 2, quân khu 5. quê xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Ông là xạ thủ súng máy phòng không 12,7 mm, chiến đấu trên 50 trận, bắn rơi 31 máy bay trực thăng Mỹ.
  • Chiến sĩ Nguyễn Văn Nhương (Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, quê ở xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) đã cùng DShK tham gia 175 trận đánh trong những năm từ 1968 đến 1972, bắn rơi 13 máy bay các loại (riêng trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, bản thân ông đã bắn rơi 7 máy bay)[9][10]
  • Ngày 30 tháng 7 năm 1970, tại khu vực núi Cô Pung, tây Thừa Thiên-Huế, khẩu đội súng máy 12,7mm thuộc sư đoàn 324, xạ thủ Đặng Thọ Truật đã tổ chức phục kích trực thăng Mỹ đổ quân. Trong khoảng 30 phút, với 125 viên đạn, Đặng Thọ Truật đã bắn rơi tại chỗ 13 trực thăng, bắn bị thương 11 chiếc khác. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đặng Thọ Truật được tặng thưởng 5 danh hiệu “Dũng sĩ diệt máy bay”, 2 danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ” cùng nhiều phần thưởng khác. Ngày 10/8/2015, Đặng Thọ Truật được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân[11].
  • Lúc 13h ngày 13/9/1968, Đại đội 18 Trung đoàn 320, với 2 khẩu DShK và 40 viên đạn đã bắn rơi 2 chiếc trực thăng UH-1, trong đó 1 chiếc đang chở ban chỉ huy Mỹ, giết chết thiếu tướng Mỹ Keith Lincoln Ware (Tư lệnh Sư đoàn 1 "Anh Cả Đỏ" của Mỹ)[12]

Trong Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979, súng máy DShK đã được sử dụng rộng rãi tại các căn cứ phòng thủ phía Bắc, góp phần tiêu diệt quân Trung Quốc từ khoảng cách xa, làm tiêu hao bộ binh của Chiến thuật biển người.

Hiện nay, DShK trong biên chế của Quân đội nhân dân Việt Nam đang dần dần được thay thế bằng loại súng máy 12,7 ly 7 khác tiên tiến hơn là NSV. Thế nhưng, DShK hội tụ đầy đủ các đặc điểm như: ưu việt, mạnh mẽ, bền bỉ, tiện dụng, đa năng, chai lì, dễ bảo trì,... khiến nó vẫn được bộ binh của Quân đội nhân dân Việt Nam tin tưởng sử dụng thêm một thời gian dài nữa.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: DShK http://en.calameo.com/read/000127853fed679f5ecec http://books.google.com/books?id=EWEFdti6JQkC&pg=P... http://www.youtube.com/watch?v=5YmLAZv0Eu0&feature... http://www.youtube.com/watch?v=Z9bQmtaW0L4 http://www.militaertechnik-der-nva.de/Waffensystem... http://www.imfdb.org/index.php/DShK http://world.guns.ru/machine/mg03-e.htm http://baogialai.com.vn/channel/1624/201007/chuyen... http://www.baogialai.com.vn/channel/1624/201412/ky... http://www.baohoabinh.com.vn/246/78263/Dung_si_ban...